Thăm cố đô Huế, một điểm đến với 5 di sản
Chỉ có thể là Huế, vùng đất được mệnh danh là xứ sở của di sản, nơi lưu giữ và bảo tồn tốt nhất văn hóa và nghi lễ truyền thống Việt Nam, là điểm đến không thể bỏ qua đối với bất cứ ai muốn khám phá về cội nguồn dân tộc.
Sau gần 400 năm tồn tại (1558-1945), triều Nguyễn đã để lại cho người Việt những di sản văn hóa,lịch sử khổng lồ và hết sức đa dạng và Huế, với tư cách là kinh đô của triều đại đã được thừa hưởng rất nhiều từ các di sản vô giá này. Cho đến nay, Huế đã có 5 di sản thuộc 3 loại hình khác nhau được UNESCO vinh danh. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về 5 di sản này nhé!
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ (1993- DI SẢN VẬT THỂ)
Quần thể di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế là những di tích lịch sử - văn hoá do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế, Việt Nam, được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới vào ngày 11 tháng 12 năm 1993.
Quần thể di tích cố đô Huế là một phức hệ kiến trúc cung đình đa dạng, bao gồm thành quách, cung điện, lăng tẩm, đàn miếu, chùa quán, phố thị, vườn cảnh… phản ánh một cách toàn diện diện mạo của một kinh đô phương đông trong thời kỳ phát triển rực rỡ nhất. Dẫu trải qua sự tàn phá của chiến tranh, của thiên tai cùng sự bào mòn của thời gian, quần thể kiến trúc ấy vẫn còn khá nguyên vẹn và đang được bảo tồn, gìn giữ.
NHÃ NHẠC- ÂM NHẠC CUNG ĐÌNH VIỆT NAM (2003- DI SẢN PHI VẬT THỂ)
Nhã nhạc- âm nhạc cung đình Việt Nam cũng là một di sản độc đáo mà Huế còn giữ được. Tuy nhiên, cho đến cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, di sản này đã thực sự ở trong tình trạng lâm nguy do đội ngũ nghệ nhân ngày càng vắng bóng và do thiếu môi trường diễn xướng. Những nỗ lực không mệt mỏi của đội ngũ những người làm công tác bảo tồn ở cố đô Huế, Nhã nhạc được UNESCO công nhận là Kiệt tác Di sản truyền khẩu và phi vật thể của Nhân loại vào ngày 07 tháng 11 năm 2003.
Đặc trưng của Nhạc cung đình là tính bao trùm đối với tất cả các bộ môn âm nhạc khác, từ Lễ nhạc (dùng vào các cuộc tế lễ lớn nhỏ của cung đình, trong các chùa miếu), nhạc thính phòng, sân khấu, kể cả các vũ điệu, mà mỗi bộ môn đều có những nghệ sĩ thượng thặng chuyên sáng tạo và biểu diễn. Các quy định về quy mô dàn nhạc, cách thức diễn xướng, nội dung bài bản, v.v. của Nhã nhạc đều rất chặt chẽ, phản ánh tính quy củ qua các định chế thẩm mỹ rất cao, có khả năng phản ánh tư tưởng, quan niệm triết lý của chế độ quân chủ đương thời. Các buổi trình diễn Nhã nhạc thường huy động rất nhiều diễn viên ca múa và xiêm y phong phú với những trang trí lộng lẫy và tinh tế.
Nhã nhạc đã trở thành một phần thiết yếu của nghi lễ cung đình Việt Nam với hàng trăm nghi lễ khác nhau hằng năm. Tuy nhiên, vai trò của Nhã nhạc không chỉ giới hạn ở việc hòa nhạc phục vụ các nghi lễ mà còn cho thấy là một phương tiện giao tiếp và thể hiện lòng tôn kính đối với thần linh và các vua chúa thời phong kiến, cũng như truyền tải được những tư tưởng triết lý và tri thức về vũ trụ của người Việt Nam.
MỘC BẢN TRIỀU NGUYỄN (2009- DI SẢN TƯ LIỆU)
Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thế giới đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận ngày 31 tháng 7 năm 2009, gồm 34.618 tấm, là những văn bản chữ Hán - Nôm được khắc ngược trên gỗ để in ra các sách tại Việt Nam vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Dưới triều Nguyễn, do nhu cầu phổ biến rộng rãi các chuẩn mực của xã hội, các điều luật bắt buộc thần dân phải tuân theo, để lưu truyền công danh sự nghiệp của các vua chúa, các sự kiện lịch sử..., triều đình đã cho khắc nhiều bộ sách sử và các tác phẩm văn chương để ban cấp cho các nơi. Quá trình hoạt động đó đã sản sinh ra một loại hình tài liệu đặc biệt, đó là mộc bản.
Tất cả nội dung các bản thảo được khắc trên mộc bản đều được hoàng đế trực tiếp ngự lãm, phê duyệt bằng bút tích trước khi giao cho những người thợ tài hoa nhất trong cung đình khắc lên gỗ quý. Do tính chất cực kỳ quan trọng của mộc bản, dưới thời Minh Mạng, nhà vua từng có chỉ dụ: “Sai quan Bắc thành kiểm xét các ván in nguyên trữ tại Văn Miếu (Hà Nội) về các sách Ngũ Kinh, Tứ Thư Đại Toàn, Vũ Kinh Trực Giải cùng Tiền Hậu Chính Sử và Tứ Trường Văn Thể gửi về kinh để ở Quốc Tử Giám (Kinh đô Huế)”. Gỗ dùng làm ván khắc mộc bản triều Nguyễn cũng rất đặc biệt, là gỗ thị, gỗ lê, gỗ táo hay gỗ cây nha đồng, vừa mềm, vừa mịn, thớ gỗ trắng, sáng ngời như ngà voi. Nét chữ khắc trên mộc bản rất điêu luyện, tinh xảo và sắc nét. Đây là những tài liệu gốc, độc bản, có giá trị, phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa Việt Nam thời cận đại.
CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN (2014-DI SẢN TƯ LIỆU)
Châu bản triều Nguyễn là các văn bản hành chính được hình thành trong quản lý nhà nước của triều Nguyễn (1802-1945) do hoàng đế ban hành. Đây là khối tài liệu lưu trữ quý hiếm, nội dung phản ánh tương đối đầy đủ, toàn diện về các hoạt động chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội dưới triều Nguyễn. Tháng 5/2014, Châu bản triều Nguyễn được UNESCO công nhận là di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Châu bản triều Nguyễn hiện được bảo quản, lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I (Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước). Số tài liệu gốc này có của 11 trên tổng số 13 triều vua nhà Nguyễn, trong đó lưu bút tích phê duyệt của 10 vị hoàng đế trên văn bản. Châu bản triều Nguyễn phản ánh tất cả các mặt về đời sống xã hội của vương triều nhà Nguyễn, trong đó vấn đề về chủ quyền biển đảo của Việt Nam cũng được thể hiện rất rõ trong Châu bản này.
Các loại văn bản trên Châu bản triều Nguyễn bao gồm dụ, chiếu, chỉ, thân, bản kê, tấu, sớ, bản dịch văn bản ngoại giao và các dạng công văn khác. Bút phê của các hoàng đế trên Châu bản triều Nguyễn có 6 loại gồm: châu điểm, châu phê, châu khuyên, châu mạt, châu sổ, châu cải. Các hình thức Ngự phê này là một trong những đặc trưng độc đáo của Châu bản.
THƠ VĂN TRÊN KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ (2016- DI SẢN TƯ LIỆU)
Ngày 19/5/2016, Ủy ban di sản ký ức thế giới vinh danh thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là di sản tư liệu thế giới thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã khẳng định giá trị nhiều mặt, xứng đáng được tôn vinh và bảo tồn bền vững di sản này ở Việt Nam và trên toàn thế giới.
Có thể nói, kinh đô Huế thời Nguyễn là sự tích hợp và phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc truyền thống Việt Nam với hệ thống công trình kiến trúc đồ sộ, bao gồm thành quách, cung điện, lăng tẩm, đàn miếu, chùa quán... Các công trình kiến trúc từ Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, Triệu Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, chùa Thiên Mụ… đều sử dụng văn thơ để trang trí trên liên ba, đố bản, cổ diềm ở cả nội và ngoại thất công trình.
Phần lớn các công trình kiến trúc được xây dựng dưới thời vua Nguyễn (1802-1945) có thơ văn được trang trí "nhất thi nhất họa" và "nhất tự nhất họa" được hình thành cùng thời xây dựng công trình. Thơ văn này thể hiện sự phong phú đa dạng về cả nội dung cho đến hình thức. Một ô thơ đi kèm với một ô họa khắc những đề tài truyền thống thuần túy Việt Nam như bát bửu, hoa lá, trái cây, rồng, hạc, đầu rồng, dây lá…
Trải qua một thời gian dài, sự tàn phá của chiến tranh, các thảm họa thiên nhiên và con người, Cố đô Huế còn bảo lưu được một khối lượng rất lớn thơ văn trên các di tích kiến trúc này. Theo thống kê hiện nay, trên các di tích kiến trúc cung đình có tổng số 2679 ô thơ văn và cũng có chừng đó ô họa được chạm khắc, sơn thếp, cẩn xà cừ trên gỗ, trên pháp lam và đắp ngõa sành sứ. Đây thật sự là một bảo tàng sống động về văn chương của triều Nguyễn.
Trích: Nhu Nguyen (Wiki Travel)
Trích: Nhu Nguyen (Wiki Travel)